Ngày 1 - Quá mươi ngày bỏ phòng tập, chiều ngày đầu tuần tôi rốt cuộc quay lại, sau một hồi lên dây cót tinh thần. Cậu bé hướng dẫn cười hỏi tôi đi đâu, câu trả lời vô thưởng vô phạt tiện lợi nhất: ốm. Nói xong, tôi còn kịp nhăn nhở hẹn nó, tuần sau quay lại tập tành nghiêm chỉnh nhé.
Mọi thứ bỗng trở nên tựa như mới tinh. Tôi bò trên cái máy, lờ vờ với mấy quả tạ, kéo dây thì như bà lão. Tối về đến nhà người mỏi nhừ, còn sáng hôm sau thì đích thực là zombie.
Ngày 2 - Chiều ngày tiếp theo tình hình thân thể có vẻ tốt hơn, mức độ bài tự tập và thành tích cũng nhỉnh hơn. Chỉ có điều, tính chán ghét loài người vẫn nguyên dạng. Tôi thực sự khiếp sợ cái phòng thay đồ khi ở đó có quá năm chị em đàn bà.
Kinh nghiệm tôi đúc rút cho mình là, nếu dưới năm người thì khả năng rất cao là bốn hoặc ít hơn bốn người chẳng có liên quan quái gì đến nhau, rằng chị em nào khỏa thân đi lại cứ việc tự ngắm mình theo đủ chiều của các tấm gương, rằng chị em nào ngồi ghế dài hí hoáy nhắn tin thì cứ tiếp tục nhắn tin, rằng hai chị em còn lại nếu có buôn thì cũng chỉ là dăm ba chuyện tầm phào sớm kết thúc, đại loại chị đợt này sao lâu không thấy đến hay cùng lắm là chị ngô đang gạ bán món đa cấp nào đó cho chị khoai. Nhưng nếu là một ổ năm chị ngồi với nhau thì phòng thay đồ sẽ biến thành cái hũ nút, ầm ĩ quá tiệm nhảy lúc nửa đêm, và sặc thứ mùi đàn bà dư thừa phần dâm và ác vừa hay mở được cái van xả phát tiết, tất nhiên là qua lời.
Ngày 3 - Gián đoạn một ngày, chiều nay tôi quay lại với kỷ luật. Thở phì phò, lầm bầm chửi thề vì mệt. Lúc kết thúc, áo tập ướt nhép và hôi rình. Điều an ủi là cái cân dừng ở con số 64.7, bất chấp chuyện bữa trưa nay tôi đã thực sự quá đà với thức ăn và sau đó là thức uống.
Tôi không trèo bus về nhà vì đúng giờ tan tầm xe nêm chật người. Đi bộ ung dung qua Paris Gâteaux con giời nghĩ thế nào cao hứng vào tìm gói bánh mỳ tròn. Lúc thanh toán lại cao hứng nhìn trúng tủ kem, hỏi có ốc quế không, cậu đứng quầy mặc cả phải mua từ hai viên trở lên. Ừ thì hai viên, chanh leo chua chua. Cậu bé cẩn thận hỏi lại, rằng thì là chua, rằng thì là có thể chọn hai vị khác nhau, tôi kêu không sao, kiên nhẫn chờ rồi khoái chí vác túi kem vừa đi vừa xúc ăn, miệng cứng đơ vì lạnh.
Tôi nhớ mùa hè năm nào, cô Barbara dẫn đến một tiệm kem của hai cụ già gốc Ý lụ khụ lưng còng, ở tầng trệt kiểu bán hầm của một tòa nhà cũ trên con phố nhỏ có tên rất xã hội chủ nghĩa Odessa. Chúng tôi ăn kem vị basilic. Tôi đã rất thích và hào hứng kể đi kể lại với Alex, đến mức một ngày ông anh trạch nam đích thực đã quyết định đưa tôi quay lại đó. Ngày nắng đẹp tưng bừng, tôi nhìn thấy một người hoàn toàn khác với gã kiệm lời và mặt mày luôn cau có, chúng tôi giống đám khách du lịch tứ xứ, vừa rảo bộ vừa thưởng thức phần kem của mình.
Sau gần hai chục năm, vào một cuối chiều còn dư nắng, tôi có hai viên kem và số cân nặng xấp xỉ một lần rưỡi tôi mùa hè năm đó. Không còn vô tư hay háo hức mà là tỉnh bơ. Và chút khoái chí kiểu trẻ con khi thấy vài ánh mắt ngạc nhiên của người đi tập ngược chiều trở về từ công viên. Kết thúc chỗ kem tôi thiếu chút cười ầm ĩ với bản thân, hóa ra ba ngày khởi động lại đã thành công cốc với lượng calo tôi vừa tự tặng mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét