Hiển thị các bài đăng có nhãn az - tên gia vị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn az - tên gia vị. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 25 tháng 4, 2021

ớt xiêm tuy hoà - ớt ngâm mắm, ớt ngâm dấm

ớt xiêm Tuy Hoà - ngâm dấm ăn liền
TL cùng bạn đi chơi Tuy Hoà. Lúc về đặc sản địa phương làm quà có một bịch nhỏ ớt xanh xanh đỏ đỏ.

So với ớt hiểm mua ở chợ Thái bên xứ cờ-hoa, các bạn ớt Xiêm/ớt hiểm này trái nhỏ hơn nhiều. Nhìn hình thức chẳng khác chi nhà "ớt gió" Hà Giang nghe nói được không ít người ca tụng. 

Ớt xanh đỏ trái nhỏ này không cay tức thì, không cay dữ dội. Cảm giác ban đầu là bạn ý lành, dịu, nếu không nói là ngòn ngọt. 

Nhưng cứ chủ quan phóng túng mồm miệng mà xem. Cắn đôi ba trái ớt, lát rồi nếu không toác miệng thè lưỡi thở phì phì thì là nhảy cẫng lên mà kêu cay cay liền à.

Ớt đó bữa rồi tôi làm thử hai món theo yêu cầu của TL. Một ngâm mắm chắt. Một ngâm dấm gạo.

Ớt bỏ cuống rửa sạch và để ráo, thật ráo - cẩn thận dùng giấy bếp thấm thêm một lượt trước khi làm món.

Ớt cho vô keo, đổ dấm gạo ngập, đậy nắp kín và để chỗ râm mát thoáng đãng. Bỏ quên bạn ý từ một tuần đến mươi ngày là có thể rón rén khều đũa lấy vài trái ăn chơi. Ớt lúc đó chưa thực dẻo, phần hăng có giảm nhưng cay kỹ cay sâu thì dường như tăng cấp độ. Còn phần dấm thì khỏi phải nói, thơm thật là thơm.

Ớt ngâm mắm cũng được làm theo cùng một cách, ớt vô keo, mắm đổ ngập rồi đậy nắp thật kỹ. Nước mắm ngâm ớt thơm. Còn ớt ngâm càng lâu càng dẻo, lại đậm đà hương vị biển cả, vô cùng hợp cho mấy món chấm lướt qua đầu đũa của vài bạn rau củ quả luộc hay xào.

ớt xiêm Tuy Hoà

Thứ Tư, 17 tháng 2, 2021

fennel seed - hạt thì là [tây] / hạt tiểu hồi

fennel seed - graines de fenouil - hạt thì là / hạt tiểu hồi
Hạt thì là [tây], Hạt tiểu hồi

fennel seed
graines de fenouil (F)

* Khác: Tiểu hồi / Hồi hương 


(1)

Lần đầu tôi biết đến fennel seeds là trong chuyến đi chơi nhà Cha Mẹ của Oli ở thành Florence. Hơn một tuần ở đó, được bạn tha lôi đi kha khá chốn cùng nơi xứ Tuscany, tôi được nếm náp, đánh chén thoả thuê vô khối món từ quà hảo ngọt qua đồ nguội, và đặc biệt hơn cả là các món Mẹ làm ngay trong bếp nhà bạn.

Trở về Paris, tôi được Mẹ của Oli tặng cho một bịch bự với nhiều hũ gia vị khô lạ hoắc "lần đầu biết đến". Những chai lọ gia vị này sau đó được ngồi máy bay về Hà Nội để tôi có thể hăm hở đi tìm mua dầu olive và "trổ tài" làm món rán ướp gia vị khô Địa Trung Hải.

Trong nhiều năm, tôi có một hình ảnh thị giác về fennel seed mà không cần để ý tên gọi, bất chấp cái lọ gia vị chữ to lù lù. Thi thoảng tôi còn gọi vui, gia vị hạt thóc Ý.

Cũng trong rất nhiều năm, tôi thuỷ chung dùng hạt thì là Tây này cho mấy món rán/chiên từ thịt nạc vai qua thịt gà. Cho các món cá và thịt bò, nếu tôi nhớ không nhầm thì thời gian đó tôi chưa từng thử dùng qua bạn gia vị này.

(2)

Giờ đây, cái sự biết của tôi về fennel seed xem chừng khá khẩm hơn chút. Có lẽ vì sự hiện diện của hũ gia vị khô này trong bếp nhà, luôn trong tầm mắt.

Tôi tìm hiểu qua loa thì thấy fennel seed được ca tụng nhiều ở cái công dụng giúp thuận tiêu hoá, giảm chướng bụng/đầy hơi của nó. Lại nghe nói nhiều người Ấn Độ có thói quen nhai nhai mấy hạt thì là sau bữa ăn, vừa để thưởng thức vị tươi và thanh của nó, lại vừa giúp nhuận tràng. 

(3)

Đối với tôi fennel seed fennel seed, cứ ngây ngô một ý niệm, một nhận định như vậy.

Nếu có được chút tinh tế trong sự để ý thì tôi nhớ những hạt thì là đầu tiên trong cái hũ gia vị từ nước Ý rõ ràng là mập mạp và ngả sắc vàng nâu chứ không xanh rì như hạt tôi mua ở An Nam đôi ba năm trước, lại càng không gầy guộc mong manh như đám hạt trong keo gia vị bếp nhà biển bây giờ.

Một số bà con cuồng gia vị khô, trong đó có tình yêu vô bờ bến dành cho hạt thì là, còn khẳng định chắc nịch, rằng thì là mà fennel seed xuất xứ Ấn Độ là thơm hơn cả, khi so với đám họ hàng của nó từ Trung Quốc hay Địa Trung Hải. 

Và cuối cùng, điều tôi đọc được nhưng chưa từng thử, đó là với một số loại nước dùng [bếp Tây] thì fennel seed là một thành phần góp và tạo vị lý tưởng.

(4)

Chuyện món ăn là vậy. Sang chuyện món uống, vừa vặn tôi mới thử một công thức cho masala chai - trà chai nhà làm.

Khác mấy lần nấu trà chai trước đó, lần này trong mớ hạt quả khô nấu trà, có non một thìa cafe hạt tiểu hồi. 

Nhưng rất thật thà mà nói, tôi có cảm giác cho bạn này vào thì ly trà làm ra có chút lợ. Tất nhiên, đây chỉ là vấn đề cảm giác chủ quan.

(5)

Loanh quanh một hồi, đối với tôi trong bếp, dùng fennel seed vẫn cứ luôn là theo trật tự ưu tiên các món ướp và nướng, đặc biệt là thịt gà và thịt heo!

Còn sau này, nếu có duyên, tôi sẽ từ từ khám phá tiếp 🌿🌿🌿🌱🌱🌱

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2021

doubanjiang - tương đậu biện / đậu biện tương

Pixian doubanjiang - tương đậu biện Huyện Bì, Tứ Xuyên

Tương đậu biện / Đậu biện tương
Tương đậu bản
Tương đậu cay [Tứ Xuyên]

[la] doubanjiang
tobanjiang
[spicy] broad bean chili sauce
fermented chili bean paste
pâte de fèves épicée et fermentée (F)
...


(1)

Theo mặt chữ, doubanjiang hay tobanjiang có nghĩa là tương đậu / bean paste, chỉ một dạng [sauce/paste] đậu lên men và thường là có vị cay.

Khi gặp từ tương đậu biện, những người "ngoại đạo" với bếp Hoa [không phải là người Hoa] có xu hướng nghĩ ngay tới Tứ Xuyên với đặc sản được biết đến rộng rãi là Pixian Doubanjiang - tương đậu biện Huyện Bì [lấy theo trấn huyện xuất xứ Pixian hay còn gọi là Pi và Pidu].

Tuy vậy, ẩm thực Trung Hoa trên thực tế mang trong nó một sự phong phú dồi dào các chủng loại / đặc sản tương đậu biện, chứ không phải chỉ chuyên nhất tương đậu biện Tứ Xuyên hay cụ thể hơn nữa là tương đậu biện Huyện Bì!

(2)

Doubanjiang trong tiếng quan thoại được sử dụng không đồng nhất ở các vùng miền khác nhau của Trung Quốc.

Ở Tứ Xuyên, nói tới đậu biện tương là chỉ món tương sậm màu nâu đỏ được lên men từ đậu răng ngựa [broad beans / fava beans] và ớt tươi. Dù có vị cay thì không phải lúc nào từ la - spicy / cay cũng nhất nhất phải được dính kèm doubanjiang. Không cần phải kêu tên đậu biện tương cay / spicy doubanjiang thì nó đã đủ cay rồi 🌶️🌶️🌶️

Ở Đài Loan, Hong Kong và miền Nam Trung Quốc, đậu biện tương lại chỉ nhiều dạng tương đậu lên men từ hạt đậu tương/đậu nành [fermented soybean pastes]. Các loại tương này có thể cay hoặc không cay và tên gọi tương ứng là đậu biện tương - doubanjiang hay đậu biện tương cay - la doubanjiang.

Với người Trung Quốc sống ở các vùng miền khác nhau, tên gọi đậu biện tương không đặt ra khó khăn gì trong cách hiểu và cách dùng của họ. Nhưng rời khỏi khung cảnh bếp Hoa thì với vô khối người ngoại quốc, nhất là những ai chập chững khám phá ẩm thực Trung Quốc, doubanjiang có thể là một thách thức lớn, một từ gây bối rối, lẫn lộn!

Hãy tưởng tượng, bạn có một công thức làm món trong tay và giữa các thành phần nguyên liệu bạn đọc được đậu biện tương với vỏn vẹn thông tin n thìa súp chẳng hạn, đố bạn biết đó sẽ phải là món lên men làm từ đậu răng ngựa / broad bean paste hay đậu nành / soybean paste? Tôi đã ở trong tình trạng này nhiều lần, vô cùng khó chịu, đặc biệt khi tôi lại dốt nát món chữ vuông để có thể tiếp cận nguồn mạng nhện bếp núc khổng lồ bằng tiếng Trung! 

(3)

Về tương đậu biện Tứ Xuyên, không nói tới tương đậu biện nhà làm thì nổi danh hơn cả, nhất là ngoài biên giới Trung Quốc, có lẽ là tương đậu biện Huyện Bì - Pixian Doubanjiang. Theo tổng kết của chính người Tứ Xuyên cũng như giới chuyên gia nghiên cứu lịch sử, văn hoá và ẩm thực vùng đất này, có ba cơ sở làm nên danh tiếng cho tương đậu biện Huyện Bì: công thức bí truyền, nguồn nước và điều kiện thời tiết thuận lợi.

Đối với người Trung Quốc, danh sách tương đậu biện đặc sản Tứ Xuyên kha khá dài và không giới hạn ở Huyện Bì. Có thể kể đến những địa phương khác như Thành Đô, Tự Cống; và thậm chí là lấn lướt sang cả Trùng Khánh như là những địa danh gắn với các loại tương đậu biện nổi tiếng.

(4)

Về cách dùng, chủ yếu cho xào nấu, hiếm khi được dùng như gia vị ăn liền trên bàn ăn.

Nhiều món ngon của bếp Tứ Xuyên không thể thiếu thành phần làm nên hương vị đặc trưng này: đậu phụ ma bà / đậu phụ Tứ Xuyên - mapo tofu, bò nhúng/trụng Tứ Xuyên - shuizhu beef / shui zhu niu rou, thịt lợn nấu chín hai lần / hai lửa - hồi oa nhục / twice-cooked pork / hui guo rou, xào cay cay tê tê - spicy numbing dry pot / mala xiangguo, lẩu Tứ Xuyên - Sichuan hot pot [soup base]... Ngoài ra đậu biện tương còn được cho thoang thoảng vào mấy món cơm rang và mỳ xào để tạo hay cường vị.

(5)

Quay lại tương đậu biện - doubanjiang nghĩa chung, động tới chuyển ngữ trong tiếng Anh lập tức thòi lòi ra cả đống chuyện hài.

Nói gọn một câu thì tôi sẽ nhại lời mấy ông anh ngồi xổm quán nước chè đầu phố rít điều cày và bốc phét tối ngày, hiểu được chết liền!

Fuchsia Dunlop, một tác giả nổi tiếng về ẩm thực Tứ Xuyên, gọi doubanjiangchili bean paste. 

Các bác làm tương [và các nhà xuất/nhập khẩu] cùng đám thầy bà foodie writers thì cho người dùng lạc vào mê cung với đủ tên gọi: (chili) broad bean paste, (chili) bean paste, (chili) soybean paste, (chili) bean sauce, (hot) bean sauce... mà cả bean paste lẫn bean sauce thực chỉ là tên gọi chung [generic].

Thế nên mới có hoàn cảnh một kẻ chập chững món Hoa sẽ có nguy cơ to là đơ mặt trước một công thức làm món với thành phần gia vị tương đậu biện, không biết tìm ông/bà tác giả của cái công thức đó ở đâu để mà cốc đầu một cái và hỏi, túm lại bác nói tương đậu biện là cái tương đậu biện nào (?)

Cho tới hôm nay, tôi lỗ mỗ biết tạm như vậy cái đã về doubanjiang. Sau này từ từ tôi ngó nghiêng tiếp!

Thứ Hai, 18 tháng 1, 2021

dấm trong bếp hoa & tìm hiểu về dấm bảo ninh

Tôi lọ mọ ngó nghiêng nhà bác gúc-gù, thấy về căn bản tổng kết 4 loại dấm nổi danh trong các truyền thống bếp vùng miền của Trung Quốc. Tất nhiên là với mở ngoặc, chớ quên còn vô vàn loại dấm đặc sản từ các địa phương khác của đất nước rộng lớn này.

Điểm danh bốn loại dấm này là: 

- Dấm đen Giang Tô Zhenjiang / Chinkiang Black Vinegar (trong đó Zhenjiang là tiếng quan thoại, còn Chinkiang là Đài ngữ)
- Dấm chín Sơn Tây Shanxi Mature Aged Vinegar
- Dấm đen Bảo Ninh Tứ Xuyên Sichuan Baoning Vinegar
- Dấm đỏ Phúc Kiến Fujian Youngchun Red Vinegar

(2)

Dấm Bảo Ninh xuất xứ Lãng Trung [Langzhong] là một trấn thị ở tỉnh Tứ Xuyên. Bảo Ninh chính là tên cổ của Lãng Trung. 

Dấm Bảo Ninh là thành phần quen thuộc, nếu không nói là không thể thiếu, trong bếp Tứ Xuyên với vai trò cấp vị chua đặc trưng của nó.

(3)

Đề xuất thay thế cho dấm Bảo Ninh trong trường hợp không tìm được bạn này:

- Dấm đen Giang Tô Chinkiang/Zhenjiang Vinegar
- Dấm rượu vang đỏ Balsamic Vinegar of Modena

Bước đầu tìm hiểu là vậy. Từ từ tôi đi tiếp :-)))

chai dấm Bảo Ninh đầu tiên tôi có trong bếp
từ Mala Market

Thứ Ba, 25 tháng 8, 2020

red rice yeast - bột gạo men đỏ

Bột gạo men đỏ

red rice yeast
red yeast rice
red fermented rice
red rice koji
hóng qú mi / hung kuk mai (C)
levure de riz rouge (F)

* Khác: Hồng cúc ~ Hồng khúc

Cái vụ này hay. Tôi ngâm cứu công thức cho món sườn xá-xíu, vô tình coi được video hướng dẫn của một bác chef bếp Hoa, trong đó bác tán bột gạo men đỏ để ướp thịt.

Từ đó lần lần mò mò thì ra được nhiều thông tin thú vị.

Tạo màu trong nấu nướng, chế biến thực phẩm: bánh trái, đậu phụ nhự, dấm gạo đỏ, thịt char siu, vịt quay Bắc Kinh, rượu gạo hồng... Rồi lại có vai trò thực phẩm chức năng. Đại khái là tùm lum tùm la.

Nhà ít làm mấy món theo kiểu bếp Hoa, nên tôi chắc không có ý định đi tìm bạn bột gạo men đỏ này.

Ghi lại note này để sau có dịp tìm hiểu tiếp về bạn này khi ngó nghiêng các món có liên quan.

* Note ghi thêm: Đã hỏi hai bạn người Hoa, cả hai đều nói biết bột này tạo màu song không bao giờ sử dụng. Tự dưng tôi có chút nghi hoặc - với máu xỏ xiên cố hữu cũng như tinh thần thuyết âm mưu của bản thân - rằng thì là mà vô khối các bài tụng ca trên mạng cho bạn này với tư cách thực phẩm chức năng có phải là một chiêu trò quảng cáo phóng đại của mấy người chuyên "hàng xách tay"?!

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

nghệ - tumeric

Nghệ [củ, bột]

tumeric [roots / powder]
curcuma [racine de / poudre de] [~ en poudre] (F)

* Khác: khương hoàng

Bà cụ già ở Bắc Ninh, gốc gác nhà quê rồi lúc có tuổi lại cùng ông lão dân thành thị trở về quê hương làm nông dân tay mơ, là một người vô cùng mát tay với mấy công việc vườn tược. Thi thoảng tôi còn nói đùa, Mẹ khéo tay quá nên chẳng để lại phần dư cho con gái.

Trong nhiều sản phẩm vườn nhà do Mẹ làm, và có sự hỗ trợ đắc lực của ông cụ già nữa, có món bột nghệ. Tôi chưa bao giờ hỏi bà cụ già làm thế nào để ra được sản phẩm, chỉ là từ nhiều năm nay bếp nhà Hà Nội chẳng bao giờ thiếu thốn một cái hũ đựng thứ bột vàng mướt này.

Mà có lẽ cũng vì cái sự luôn sẵn có đó nên trong bếp nhà, làm bếp phóng tay với nghệ - nhất là bột nghệ - trở thành chuyện hết sức tự nhiên.

Nổi bật nhất là nghệ cho mấy món ướp gà và cá do TL phụ trách. Cá ướp các loại gia vị khác cùng bột nghệ sau đem ra nướng bếp than hoa, lửa chưa tàn mùi thơm đã bay khắp vườn, len lỏi kiểu chơi trò ú tim trong nhà, khơi dậy cái sự thèm ăn của cả người đứng bếp lẫn những kẻ hóng ăn đứng nhìn. Mấy món gà, từ gà ướp nghệ và sả lấy thêm vị thơm của mấy hạt dổi đến gà ướp cumin và tiêu rừng mà không quên bạn nghệ, được rang/rim sau đến cả nửa ngày ướp kỹ càng cho món ra vừa mãn nhãn vừa yêu chiều đầu lưỡi và mau thoả mãn cái dạ dày.

Nghệ cũng là thành phần không thiếu với tư cách vừa tạo màu vừa hỗ trợ tạo/điều vị cho mấy món canh truyền thống: cà bung từ chay với đậu phụ qua mặn với thịt ba chỉ hay đôi khi đơn giản là mấy dẻ sườn non; ốc hay lươn nấu chuối đậu; canh chua/riêu cua, cá hay canh sườn bung với dọc mùng...

Rồi những món xuất xứ phương xa nay đã thành quen thuộc với bếp nhà như mấy món canh cà ri. Hay những món Việt lại rộng đường biến tấu ngả nghiêng với nhiều gia vị lạ mà quen như chả cá vời đến vị cà ri.

Và không thể thiếu nghệ tạo sắc cho mấy món cơm hay bột nhào làm dăm ba loại bánh. Đại loại là thế.

Tôi chưa bao giờ thử và cũng chẳng mấy tò mò, nhưng biết là lá nghệ còn được dùng cho mấy món cá kho chi chi trong bếp dân gian, hay nữa hình như là để trang trí dăm ba món hấp.

Hai năm trước, tôi có đợt trị liệu dài với một bạn trẻ giỏi giang và nhiều tham vọng theo nghề thuốc truyền thống. Như một routine, bữa nào gặp bạn nhỏ này, không tính thời gian tôi lơ mơ ngủ thiếp đi thì bao giờ cũng có một đoạn nhỏ thời gian tôi luyên thuyên giống một nhóc tỳ nghiện trò một vạn câu hỏi vì sao, thì thào hỏi bạn nhỏ đã tiến bộ đến đâu với các bài học về cây cỏ vị thuốc trước khi quay lại ngâm nga nhẩm bài khương khương khương và cười khanh khách khương này là nghệ khương kia là gừng.

Cuối cùng, thêm một chuyện ngoài lề bếp núc, cùng với đinh lăng và ngải cứu, cây nghệ để trong nhà được xem là một vật phong thuỷ rất tốt. Tôi lười tìm hiểu và cũng thật không giỏi giang gì để theo đuổi món này nên nghe vậy biết vậy. Mà thực nói thì ba cây đó đều có ích cho việc bếp, nên tác dụng phong thuỷ đến đâu tôi chẳng hay, cứ có trong nhà cũng thích mà :-)))

nghệ củ và nghệ [tinh] bột

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

bay leaves - lá nguyệt quế

Bay leaves ~ Lá nguyệt quế

bay leaf / leaves
feuilles de laurier (F)
* cho mục từ tương lai: Indian bay leaf / teja patta / tej pat / tej patta / "pungent leaf" / malabar leaf... 

Lần đầu tiên tôi biết đến lá nguyệt quế là đâu đó hoặc trong món hầm của bà giúp việc nhà Alex thơm lừng ra tới tận vườn ở Paris, hoặc trong nồi ninh sauce cà chua liu riu trên bếp cả đêm dài của Mẹ Oli ở nhà Firenze.

Còn lần đầu tiên dùng đến bay leaves trong bếp nhà Hà Nội của tôi là khi làm dry beef theo kiểu bếp nhà - gọi là bò kho cũng đúng mà bò khô cũng chẳng sai. Khi ấy, nồi ninh to bự, thưởng bò hai ba cái dăm sáu ký là chuyện bình thường. Và khi ấy, tôi rất khoái trá trêu đùa cô hàng xôi bán nhờ trước cửa khi chỉ vào nắm lá khô cùng bịch bột cá của Nhật mà bảo, đây là toàn bộ bí mật của món bò kho nhà làm đấy.

Lá nguyệt quế thi thoảng làm vài món chuẩn theo công thức tôi có dùng tới: mấy món ninh hầm thịt có, đậu hạt có. Nhưng về căn bản tôi mù tịt bếp Tây nên có dùng tới lá bay thì đều là theo kiểu Việt-hoá, rất hài hước!

Ngoài nồi kho bò tổ chảng, bay leaves thi thoảng còn được sánh vai cùng các bạn gia vị và nguyên liệu trong nồi nước dùng phở bò hoặc gà kiểu nấu cháo rìu - tức là bếp có gì và nhớ trong bếp có gì thì con giời quơ cho vô cái nồi nước dùng đang được nấu. Khác với món bò kho có thể phóng tay thì cho món nước dùng phở này, lá khô dùng tới chỉ khiêm tốn một hai cái nhỏ và sau một thời gian thì vớt khỏi nồi nước dùng để tránh lấn át các gia vị và nguyên liệu khác.

Hè năm nay trong bếp nhà ở biển, tôi học thêm hai cách dùng mới lá bay: một là cho món gà của người Phi-luật-tân adobo chicken - rất thành công; và một là trong keo nước ngâm dưa chuột - thất bại thảm hại.

Bữa trước tôi nói muốn mua cây chanh Thái, bạn đánh chén bảo được được. Hai ba ngày sau ông hăm hở chỉ hình trên mạng nhện, kaffir lime hoá thành cây lá bay. Tôi bảo nhầm rồi, ông tưng tửng, ờ tưởng hai thứ đó là một. Chuyện làm tôi buồn cười là trong tủ bếp của ông riêng lọ nhỏ keo to đựng bạn lá gia vị khô này ông có không dưới 5 loại, chứng tỏ là ông không xa lạ gì, thế mà lại nhầm sang lá chanh Thái. Nhưng lần trước qua nhà hàng xóm trên núi xơi cơm thì tôi lại gặp chuyện tương tự. Cô chủ nhà nếm món chả tôm-cá vị kaffir lime và ớt cayenne xong thì hồ hởi chạy vào bếp rồi chốc lát mang ra hiên chỉ cho tôi một cái túi nhỏ với nắm lá khô chẳng cái nào lành lặn và trông lem nhem như lá cây rừng nhặt đại một vốc bảo có phải là cái này không. Lá cô mua giá đắt lòi tù và có tên gọi là Indian bay leaves, cả về độ dày mỏng lẫn mùi vị có chút khác mấy loại bay leaves trong tủ bếp của bạn đánh chén nhưng dứt khoát không phải là lá chanh Thái rồi.

Cây chanh Thái giờ tôi đã có. Ông lão đặt mua cái cây bé xíu đó xong thì hỏi, có muốn mua cây lá bay nữa không. Tôi dứt khoát bảo không, vì dùng hết chỗ lá khô trong bếp thì có mà hết đời mục thất.

Cho tới giờ, tôi vẫn thắc mắc, tại sao lại có thể lẫn lộn lá bay với kaffir lime nhỉ :-)

Turkish bay leaves khô và lá bay tươi ông cha hàng xóm trồng

Thứ Bảy, 11 tháng 7, 2020

thảo quả và bạch đậu khấu

Thảo quả / Bạch đậu khấu

* black cardamom - thảo quả
tso quo
bengal cardamon 
brown cardamon
hill cardamom
indian cardamom
nepal cardamom
cardamome noire [F]

* green cardamom - bạch đậu khấu
white cardamom
cardamome verte [F]

* Khác: cardamon ~ cardamum

thảo quả và bạch đậu khấu / cardamom
Không bàn đến thảo quả như là vị thuốc, trong bếp nhà từ ngày còn nhỏ, tôi chỉ ấn tượng về bạn thảo mộc này qua mấy món Mẹ nấu: nước dùng một số món bún phở, chè kho và bò kho.

Sau này, hai cụ già chuyển về Bắc Ninh sống, con cái ở Hà Nội ăn uống tạp nham, đại khái và cũng lọ mọ thử mới thì dần dần tôi khám phá ra vài điều thú vị mới mẻ về họ thảo quả.

Thứ nhất là cạnh bạn thảo quả trái khô to cỡ quả táo tàu/quả trám sậm màu, tôi biết thêm bạch đậu khấu - cả sắc trắng lẫn sắc xanh lá lạt màu.

Thứ hai, dù là thảo quả hay bạch đậu khấu, không cứ nhất thiết chỉ hữu dụng trong món ăn, thức nấu mà còn là thành phần tạo vị tạo hương tuyệt vời trong mấy đồ uống từ cafe qua trà thảo mộc.

Thứ ba, bạch đậu khấu cũng như hoa hồi, đôi khi một hạt nhỏ hay một cánh [đại] hồi nhỏ, sau khi đánh chén căng phè mấy món đồ ăn nặng vị hay đậm đà dầu mỡ, cắn chơi chơi nhâm nhi nơi đầu lưỡi vừa có tác dụng vệ sinh răng miệng lại có thể kiếm chác chút thơm hương thảo mộc tạo thanh liền một mảnh thời gian sau bữa.

Cuối cùng, trong góc bếp, góc nhà, có thể bày chơi bạn này cùng mấy loại gia vị khô khác để vừa khử mùi lại có thể tạo hương - tất nhiên là với những người quen và thích mùi của chúng. Rồi nữa, tinh dầu thảo quả cũng có thể dùng cho đèn xông hương, đại loại thế.

Bữa rồi, qua nhà hàng xóm trên núi ở Hancock xơi cơm, tôi ấn tượng mãi cái âu cơm to đùng - cơm nghệ với mấy loại rau củ quả tươi trong đó và đặc biệt nhất là thông báo của bà chủ nhà - để xem ai may mắn lấp trúng hạt bạch đậu khấu duy nhất trong âu cơm nhá. Trúng quả cuối cùng là tôi, người cho đến giờ vẫn ngạc nhiên, tại sao mà chỉ nhõn một cái hạt bé tý hon lại có thể làm cho cả âu cơm to đùng thơm thơm mùi thảo quả à 😮😮😮

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2020

hành lá

Hành ~ Hành tươi ~ Hành xanh ~ Hành lá

green onion
scallion
spring onion
oignon vert (F)
ciboule (F)

chậu hành nhà trồng hồi tháng trước
Mỗi dịp đông về, bà bán rau ở chợ tiểu khu mỗi lần tôi ghé mua hành đều có một câu hỏi sặc mùi công thức, mày lấy hành thường hay hành củ. Tiếng Việt khi dùng để nói về hành tươi/hành xanh, nếu có phân loại thì đối với tôi chính là hành thường và hành củ như lời từ miệng bà hàng rau.

Hành củ là để chỉ bó hành tươi có phần củ tròn mập mạp và phần lá thì xanh sậm và cứng (giống như lá hành mọc lên củ hành hương). Còn hành thường thì chính là hành thường 🙃🙃🙃, thân dài đều cả xanh lẫn trắng, và phần hành trắng thuôn dài chứ không phải là tạo hình củ hành tròn tròn.

Một số món ướp hay nhân trộn hành tươi phần thân trắng, dùng đến phần củ hành tươi này vị cho cảm giác đậm và thơm hơn nhiều so với dọc trắng của cây hành lá loại thường - ví dụ nhân nem. Thêm nữa là bát canh chua của mấy bạn họ nhà "tanh" - cá, ngêu, lươn - dùng củ hành tươi thái lát cùng với các bạn cọng lá xanh thả vô khi bắc nồi khỏi bếp rõ ràng đối với tôi là nhỉnh vị hơn so với hành thường. Đó là chưa kể khi nhà không có hành hương - củ hành khô mà cần hành để phi thơm, dùng cấp cứu thân trắng của hành thường ổn, nhưng sẽ là ổn hơn nhiều nếu có thể vời đến bạn củ hành trắng. Đại loại suy nghĩ chủ quan của tôi là vậy.

Tiếng Anh tôi vốn dốt nát, nhìn mấy cái nhãn ở kệ rau thì hoa mắt chóng mặt. Tùm lum tùm la từ chợ Mỹ sang chợ Á, tên gọi cứ gọi là lộn tùng phèo. Tra mạng nhện thì cũng mỗi người một kiểu. Sau hồi, tôi kết luận, green onion / scallion là chỉ cái bó hành thường - tức là thân trắng dài mảnh cùng cỡ với phần lá xanh; trong khi spring onion thì giống cái bạn hành củ tươi nhà mình - tức là phần thân trắng chỉ nhõn một cái củ hành tròn tròn mập mập.

Tiếng Pháp liên quan đến hành chuyện còn hài hơn nữa. Hè 1997, tôi lấy ngón tay quệt sạch sẽ bát sauce chấm salad và khoai tây chiên do Valeria làm, từ sữa chua Hy Lạp, dấm thơm với chi chi nữa và quan trong nhất là ciboulette séchée. Đến khi bát sauce chẳng còn gì để quẹt, tôi hỏi bạn túm lại ciboulette là gì. Mấy bữa sau Valeria chỉ bó hành xanh và bảo, đây này. Nhưng giờ nếu gõ mạng nhện thì cùng một tên gọi ciboulette lại ra hai kết quả: hành xanh và hẹ tây - chive.

Kết luận cứ là trực tiếp trước quầy rau, bằng mắt thường và kinh nghiệm mà chọn lựa món mình cần cho dù tên gọi nhãn mác là thế nào. Thế là khoẻ, hỉ!

scallion/green onion và spring onion - nguồn coi ở đây
lá hành xanh thu hoạch từ victory garden của tôi
củ hành hương nhú mầm vùi đất thì lớn và cho lá xanh thế này :-)

Thứ Hai, 1 tháng 6, 2020

tương miso - gọi tên theo màu

Tương miso ~ Miso Paste

aka miso ~ red miso - miso đỏ
tanshoku miso ~ light color miso ~ miso vàng nâu
shinshu miso ~ yellow miso ~ miso vàng
shiro miso ~ white miso ~ miso trắng

Phân loại theo màu sắc đại thể là vậy. Còn đích thực về miso paste cần cả một lịch sử chứ không phải là một hay nhiều chuyện kể. 

Cho tới giờ tôi về căn bản vẫn chỉ là kẻ lơ mơ ngó trộm mấy kệ bày hàng trong tiệm Á/Nhật. Biết về miso paste chỉ vỏn vẹn ở vài gạch đầu dòng nhỏ.

Miso trắng đối với tôi dễ ăn hơn cả, vì vị tươi, ngọt dịu của nó. Xét về hình thức, texture, coi cũng rất hấp dẫn vì cái vẻ bắt mắt dạng kem mượt mà của nó. Trong các loại miso, miso trắng có thời gian ủ ít hơn cả, và độ mặn cũng là kém hơn cả, trong khi lại dẫn đầu về chất bột đường glucide. Loại tương này thích hợp cho bát miso soup chủ vị thanh, ướp cá ngon, mà cũng rất lợi hại cho một vài món sauce chấm và salad dressing.

Sang đến miso đỏ, tôi có một trải nghiệm bi-hài cách đây vài năm. Không nhớ lọ nhỏ tương miso ai cho, đang quen dùng miso trắng, có bữa tôi cào một thìa súp lớn bạn tương này cho vào nồi canh. Kết quả là được món mặn đắng mặn chát. Miso đỏ có thời gian ủ lâu hơn cả và xét về độ mặn cũng là đứng đầu bảng. Người nấu bếp khéo không vì thế mà gặp khó khăn trong việc nấu ra phần miso soup đậm đà. Miso đỏ cũng được xem là thích hợp để ướp thịt - cái này là tôi nghe vậy và đọc vậy chứ thực chưa từng thử.

Nói đi nói lại, đến giờ, đối với tôi an toàn và lành hơn cả vẫn là trung thành với bạn miso trắng :-)

white miso trong bếp nhà

Thứ Năm, 21 tháng 5, 2020

tảo bẹ kombu

Tảo bẹ kombu ~ phổ tai

kombu
dried kelp (japanese ~)
dried seaweed
dried kombu seaweed

Lần đầu biết đến bạn này là khi học đòi nấu cơm chay theo công thức của chị chủ Mây Trắng. Để được mấy phần cơm khiêm tốn, tôi loay hoay tìm đủ nào phổ tai, nào mơ muối Nhật, nào hạt này hạt nọ. Công sức bỏ ra đúng là đáng. Món cơm đó ngon tuyệt cú mèo!

Viết blog nấu ăn và lảm nhảm cà ràm này càng lâu thì danh sách món dùng tới kombu càng dài.

kombu - phổ tai
Hay dùng hơn cả trong bếp nhà là cho món nước dùng chay/bán chay.

Kế đến là cho mấy bạn kho, từ bò kho (thi thoảng hứng chí tôi cho vào) qua nấm kho không, nấm kho đậu phụ.

Về căn bản trong nồi kho có thể để mặc các lá phổ tai đến tận khi tắt lửa. Nhưng với nồi nước dùng, nếu là nấu lượng nhỏ thì nên chú ý bỏ các lá tảo ra từ sớm để tránh bị nồng và ngọt lợ.

À còn một món nữa có dụng tới kombu nhưng tôi luôn lỡ hẹn. Đó là dưa leo muối ăn mau kiểu Nhật. Công thức hướng dẫn tôi theo có nhắc tới việc thả vô mẩu nhỏ lá tảo khô vào túi zipper muối dưa. Lần đầu tiên làm món không có lá tảo tôi vời sang vụn tảo khô chuyên cho canh/soup. Sang những lần sau, dù có hũ trữ kombu trong bếp, tôi cứ đều đều quên mất bạn ấy, sau tặc lưỡi một cái, không có cũng chẳng sao.

Tôi cũng nghe nói có thể dùng kombu chế thành một dạng gia vị - condiment: rửa sạch, ngâm mềm, cắt nhỏ, rang, sau giã trong cối một lần nữa. Kế hoạch thử cái món này của tôi có từ lâu và luôn chia ở thời tương lai xa.

Nhớ lần đầu nhìn các cọng rong khô phơn phớt sắc trắng như thể bị mốc tôi còn ớ người rồi xoay sang hoảng hốt. Sau đó cứ thế mà không biết từ lúc nào trong bếp nhà luôn luôn có một lọ nhỏ trữ các miếng phổ tai sẵn sàng cho làm món.

phổ tai trong nồi nước phở chay

Chủ Nhật, 3 tháng 5, 2020

lá chanh thái - kaffir lime leaves

Chanh Thái ~ Chanh sần ~ Chanh kaffir lime [lá]

kaffir lime 
kaffir lime leaves 
kaffir leaves

* Khác: cây chúc/trúc [tên gọi ở Vùng Bảy Núi An Giang] ~ lá chanh 8 [do hình dạng của lá chanh] ~ lá chanh cam ~ makrut ~ magrood

chanh thái vườn Bắc Ninh - DA mang giống về từ Hongkong

Chép từ Đặng Thị Hằng: 50 món ăn Thái, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2002, 150 trang - một cuốn sách giản dị giấy đen, hình đen và/nhưng mẫu mực với phần giới thiệu tổng quan về đất nước, con người và văn hóa Thái trước khi đi vào hướng dẫn chi tiết các món ăn!

Nguyên văn tại trang 40:
Đôi khi được gọi là chanh lá cam sần sùi, giống cam quýt này có da sần sùi và thơm phức, nhưng hầu như không có nước. Da (vỏ) thường được nghiền và thêm vào món ăn, còn lá của nó cũng được dùng nêm vào món canh hay món ăn lỏng như cà ri, hoặc được xắt nguyễn cho vào món sà lách dầu giấm.
cây chanh Thái đặt mua qua mạng nhện ở đất cờ-hoa 2020

NB - bổ sung note gốc 20/7/2011